Cây bứa là một cây thuốc quý. Dạng cây gỗ thường xanh cao 6-7m. Cành non thường vuông, xoè ngang và rủ xuống. Lá hình thuẫn, hơi dài, đuôi nhọn, chóp dài, mép nguyên, nhẵn bóng, có nhiều điểm mờ. Hoa đực mọc thành cụm 3-5 hoa ở nách lá, 4 lá đài và 5 cánh hoa, 20 nhị có chỉ nhị ngắn. Hoa lưỡng tính có lá đài và cánh hoa như ở hoa đực, màu hơi vàng hoặc trắng; bầu 4 (6-10) ô, hình cầu, vòi ngắn. Quả mọng mang đài tồn tại; vỏ quả dày, có khía múi, khi chín màu vàng, phía trong hơi đỏ chứa 6-10 hạt. Mùa hoa quả tháng 3-6. Bộ phận dùng: Vỏ – Cortex Garciniae.
Cây mọc hoang trong rừng thứ sinh của các tỉnh từ Hà Tuyên, Vĩnh Phú đến Quảng Nam – Đà Nẵng. Cũng thường được trồng lấy lá tươi và quả nấu canh chua. Thu hái vỏ quanh năm, cạo bỏ lớp vỏ ngoài, thái nhỏ, phơi khô.
Thành phần hóa học
Trong quả Bứa có axit hữu cơ, vitamin C (100g có 61mg vitamin C).
Trong vỏ có flavonozit. Các axit hữu cơ trong cây bứa không độc cho người mà còn có tác dụng làm giảm mỡ máu, chống béo phì.
Tác dụng dược lý
Thực phẩm giảm béo là kết quả nghiên cứu từ đề tài “Nghiên cứu chiết tách và ứng dụng axit Hydroxycitric trong cây bứa” của PGS.TS Đào Hùng Cường, Chủ nhiệm Khoa Hoá, ĐH Sư phạm Đà Nẵng.
Bứa mọi: Bứa mọi- Garcinia harmandii Pierre, thuộc họ Bứa – Clusiaceae.
Đặc điểm cây bứa rừng công trình
Cây gỗ cao 6-10m, phân nhánh nhiều từ gốc, có vỏ vàng vàng. Lá thuôn, hình trứng ngược hay hình ngọn giáo ngắn, có góc ở gốc, có mũi nhọn ở đầu, nguyên đai, dài 4-10 cm, rộng 15- 30mm; cuống ngắn. Hoa vàng vàng, hầu như không cuống; hoa đực xếp thành nhóm 3-6; hoa cái đơn độc. Quả có đường kính 10-20mm, màu tía, hơi dẹp giữa các hạt; hạt 2, có phôi to màu lục.
Ra hoa tháng 2-3, có quả tháng 3.
Bộ phận dùng: Vỏ – Cortex Garciniae. Nơi sống và thu hái: Loài đặc hữu và phổ biến ở Nam Việt Nam, Campuchia và Nam Lào. Ở nước ta, cây mọc hoang trong rừng ở độ cao thấp từ Khánh Hoá tới Đồng Nai, Tây Ninh. Công dụng, chỉ định và phối hợp: Quả có nạc ngon, mùi thơm, vị ngọt, dùng ăn được. Vỏ chát được nhân dân Campuchia dùng ăn với trầu. Người ta phối hợp với nhiều vị thuốc khác trị ỉa chảy. Ghi chú: Còn có loài Bứa Lanessan – Garcinia lanessanii Pierre mọc ở rừng Tây Ninh, có vỏ dùng để nhuộm; ở Campuchia, cây này có nhiều Công dụng, chỉ định và phối hợp. Bứa mủ vàng – Garcinia xanthochymus Hook. f. ex J. Anderson thuộc họ Bứa – Clusiaceae.
Cây gỗ lớn; nhánh non vuông, vàng vàng hay nâu. Lá có phiến thuôn, to, dài đến 30cm, rộng 6-8 cm, dày bông, gân phụ nhiều cách nhau khoảng 1cm; cuống ngắn. Hoa ở nách lá già, rộng cỡ 1cm, cuống 2 cm; hoa đực có 5 lá đài, 5 cánh hoa trắng, cao 8mm; 5 bó nhị mà mỗi bó có 3-5 bao phấn, có nhuỵ lép; hoa cái có bao hoa như hoa đực, nhị lép, bầu 5 ô. Quả tròn, to 9cm; hạt 1-5.
Bộ phận dùng: Lá, thân, nhựa mủ và quả – Folium, Caulis, Latex et Fructus Garciniae Xanthochymi. Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở Ấn Độ, Nê Pan, Trung Quốc và Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc ở rừng miền Nam. Tính vị, tác dụng: Lá, thân, mủ có vị đắng, chua, tính mát; có tác dụng sát trùng. Quả giải nhiệt, lợi mật, làm dịu và làm nhầy. Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ở Ấn Độ, quả được dùng như quả loài Garcinia indica Chois, làm thuốc chống bệnh scorbut. Ở Trung Quốc, để trị đỉa vào mũi, người ta lấy mủ tươi với liều lượng thích hợp nhỏ vào xoang mũi, đỉa sẽ bò ra. Bứa nhà – Garcinia cochinchinensis (Lour.) Choisy, thuộc họ Măng cụt – Clusiaceae.