Cây Thốt nốt có tên gọi khác là Cọ tan, Thốt lốt, Thnaôt. Tên khoa học là Brassus flabellifer thuộc nhóm họ cau. Thốt nốt là cây bảng địa của Nam Á và Đông Nam Á, từ Indonesia đến Pakistan; được nhiều phổ biến ở Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, Campuchia, Lào. Tại Việt Nam, chủ yếu xuất hiền ở miền Tây là nhiều như An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Long An, Tây Ninh. Vậy cây thốt nốt đực và cái như thế nào hãy theo dõi nhé !
Thốt nốt là cây thân cột hóa gỗ, sống lâu năm, tuổi thọ có thể trên 100 năm, hình trụ, đơn độc mọc thẳng đứng, cao từ 25 – 30 mét, đường kính khoản 60cm hoặc hơn và thường có nhiều vòng do vết cuống để lại.
Gốc hơi phình to ra. Lá có màu xanh, mọc cách, xếp xoắn ốc, tập trung phía ngọn cây, một cây thường có 20 – 30 lá xòe rộng như cánh quạt, cuống dài có gai, phiến lá chất da, có đường kính khoảng từ 1 – 1,5 cm, xẻ chân vịt từ 60 – 80 thùy, thuôn dài, mép dính trên 1/2 chiều dài và có gai nhỏ, cuốn lá non có gốc phình rộng ôm lấy thân, gốc cuốn già có hình tam giác hóa gỗ cứng dài từ 60 – 120 cm, mép có gia thô.
Là cây đơn tính khác gốc, cụm hoa mọc trong tán lá, có cuốn ngắn hơn cuốn lá. Hoa đực và hoa cái khác nhau. Hoa đực lớn, có nhiều nhánh, có nhiều lá bắt xếp chồng lên nhau, dài đến 2 mét, gồm khoảng 8 nhánh hoa, mỗi nhánh mang 3 chùm hoa hình bông, nạc, dài 35 – 45 cm, mỗi bông chứa 30 hoa, hoa mẫu 3 với 6 nhị .
Hoa cái không phân nhánh, có lá dạng hình mo bao phủ, trục cụm hóa lớn, to hơn trục cum hoa đực, mang nhiều lá bắc hình đấu, lá bắc dưới thường không có hoa, những lá bắc khác sau mang hoa cái, hoa cái to hơn hoa đực với mẫu 3 bầu 3 ô.
Hoa thường nở rộ vào mùa xuân, tren ngọn cây thốt nốt cái có nhiều vòi hoa, người ta thường cắt vòi hoa và dùng thanh tre kẹp lại buộc ống vào đầu cụm hoa hứng nước tiết ra từ chỗ cắt. Một đêm có thể hứng đực khoảng 1 lít nước, loại nước này có chứa thành phần của đường saccaroza.
Nước có tác dụng giải khát rất ngon, thơm, vị ngọt dịu, được nhiều người ưa chuộng. Ngoài ra còn dùng nấu lên làm đường Thốt nốt, một món khá là ngon và được nhiều người biết đến.
Quả lớn có dạng hình cầu, đường kính từ 15 – 20 cm, lúc non có màu xanh, lúc già có màu nâu tím hoặc đen, nhân thịt có màu trắng, thường có 3 nhân thịt trong 1 quả, nhân thịt lúc non thì mềm dẻo, có vị ngọt thanh; khi quả già, nhân thịt cứng dần và gần như hóa gỗ. Nhân thịt non thường được dùng để nấu chè, ăn rất tốt cho sức khỏe.
Người dân ta thường trồng Thốt nốt chủ yếu để lấy làm nước uống giải khát, chế biến rượu vang và cô đặc sản xuất đường. Ngoài ra, Thốt nốt còn có nhiều giá trị khác hữu ích như: thân làm cột nhà, dầm càu, lá dùng lợp nhà, làm nón.
Không chỉ thế Thốt nốt còn sử dụng làm thuốc chữa bệnh, là vị thuốc giải độc trong trường hợp ngộ độc sắn, mã tiền. Cuốn cụm hoa được dùng làm thuốc chữa bệnh sốt, lợi tiểu.
Nước chảy ra từ vòi hoa, lấy uống làm thuốc nhuận tràng. Rễ Thốt nốt sắc uống giúp lợi tiểu. Thốt nốt non sắc uống vừa lợi tiểu vừa chữa bệnh vàng da.
Thốt nốt được nhân giống dễ dàng bằng hạt, là cây có khả năng chịu khô hạn, ngập nước, ưa sáng nhưng không chịu rét. Thốt nốt non ban đầu có tốc độ sinh trưởng chậm về sau thì phát triển nhanh hơn.
Có thể mọc trên nhiều loại đất khác nhau, nhưng thích hợp nhất là đất cát pha màu, giàu chất hữu cơ. Thường trồng thành đám để sau này dễ thu hái lá và dịch cụm hoa.
Thốt nốt ra hoa hàng năm, thụ phấn nhờ vào côn trùng hay gió. Tuổi ra hoa của cây phụ thuộc vào độ cao phân bố, Ở độ cao ngang mặt biển cây ra hoa sớm hơn các cây trông ở độ cao lớn hơn.
Tuy là cây Thốt nốt có nhiều lợi ích về mặt kinh tế, y học. Nhưng vẫn nên duy trì và phát triển loại cây này với mục đích làm cây cảnh, cây ăn quả. Cây lấy lá làm hàng mỹ nghệ và duy trì sản xuất đường thốt nốt truyền thống để thu hút khách du lịch khắp nơi đến thăm.